XtGem Forum catalog
My Tho Confession
Home
9Gang
Gửi CF
Help
Chương 8

Ở đời thiệt có lắm chuyện bất ngờ. Có những bài thơ như bài "Cô bé chụp ếch" tôi tha thiết muốn đăng lên bản tin thì không được đăng, trong khi đó có một bài thơ tôi không hề gởi thì nhỏ Kim Liên lại lấy đăng lên. Chính tôi là tác giả mà lại không hề hay biết gì về chuyện đó.
Đầu đuôi cũng do môn ngữ pháp mà ra.
Ở trong nhóm "ba bạn cùng tiến", tôi chịu trách nhiệm về cả tập làm văn lẫn ngữ pháp. Nhưng ở môn tập làm văn, khó thấy rõ sự tiến bộ như ở môn ngữ pháp. Thứ nhất là vì môn tập làm văn cả tháng mới làm bài tập một lần, còn ngữ pháp thì tuần nào cũng có kiểm tra, không kiểm tra viết cũng kiểm tra miệng. Thứ hai là ở môn tập làm văn, hiếm có trường hợp nhảy vọt về điểm số. Đứa nào bài này được điểm bốn thì phải phấn đấu ghê gớm lắm, bài sau mới ngoi lên được điểm năm, giỏi lắm thì điểm sáu. Rồi lại phải ì ạch như trâu kéo cày suốt một thời gian dài nữa mới nói chuyện kiếm điểm bảy. Đó chưa kể đến trướng hợp tháng trước mới ngoi lên ngồi chưa nóng chỗ, tháng sau đã tụt xuống rồi. Cũng y như người ta đẩy xe bò lên dốc vậy. Phải nghiến răng nghiến lợi, toát cả mồ hôi hột mới nhích lên được một thước, vậy mà chỉ cần lơ đễnh sẩy chân một cái, là lại tụt đến hai, ba thước liền. Ở môn ngữ pháp thì mọi việc không nhất định phải như vậy. Tuần trước, vì chưa hiểu bài, chưa nắm các quy tắc, có thể bạn bị điểm hai. Nhưng tuần sau, nếu đã hiểu bài thấu đáo, bạn vẫn có thể đạt điểm chín, điểm mười như bất cứ ai.
Vì vậy mà thằng Đại thường xuyên chú ý điểm ngữ pháp của Bảy và Quang để theo dõi và đánh giá kết quả công việc của tôi trong nhóm.
Đối với Bảy thì tôi không ngại. Nó vốn giỏi toán nên tiếp thu những sự lắt léo trong môn ngữ pháp cũng khá nhanh. Trước đây, nó kém môn này là vì học không có phương pháp và không tập trung công sức nhiều. Riêng thằng Quang thì tôi đến méo mặt với nó. Nó vừa mất căn bản từ lớp dưới vừa không tập trung tư tưởng được, mặc dù nó rất siêng học. Trong những buổi học nhóm, bao giờ nó cũng đến rất sớm, khi thì ngồi chờ thằng Bảy qua, khi thì đợi tôi đánh xong ván cờ với thằng Tin. Sách vở nó lúc nào cũng gọn gàng, sạch sẽ. Vậy mà ngồi học được một lúc, đầu óc nó lại phiêu lưu ở đâu đâu tận Châu Phi, Mã Lai với những đàn kiến, đàn nhện quái quỷ. Nhét được những quy tắc rắc rối vô đầu nó quả không phải chuyện dễ.
Về "thành tích" ngữ pháp của Quang, tụi lớp 9A2, tức là 8A2 năm ngoái, thường kể lại câu chuyện sau đây.
Hồi học lớp 7, khi cô Thanh giảng bài "Bộ phận chủ ngữ" không biết Quang ngồi mơ mộng những gì mà lúc bị kêu lên bảng, nó đứng lớ ngớ như người mất hồn.
Cô Thanh viết lên bảng câu "Đàn chim bay" bảo nó phân tích, nó đứng gãi cổ gần nửa tiếng đồng hồ.
Biết đợi lâu hơn, thằng Quang cũng không làm được mà có khi cổ nó tóe máu nữa không chừng, cô Thanh liền giúp nó bằng cách gạch một đường tách đôi chữ "đàn chim" và chữ "bay", rồi hỏi:
- Đàn chim là gì?
Ai cũng biết "đàn chim" là chủ ngữ, trừ Quang. Nghe câu hỏi "dễ" quá, nó mừng lắm, đáp:
- Đàn chim là động vật.
Nghiên cứu động vật vốn là nghề của nó mà! Ai dè cô Thanh nhăn mặt:
- Ai chẳng biết là động vật! Nhưng cô muốn hỏi em "đàn chim" giữ nhiệm vụ gì trong câu!
Quang lại sáng mắt:
- Thưa cô, đàn chim giữ nhiệm vụ bay ạ.
Cả lớp cười nghiêng cười ngửa. Cả cô Thanh cũng không nhịn được cười.
Vậy mà hai năm trôi qua, nó chẳng tiến bộ được một chút nào. Đối với nó, môn ngữ pháp còn "độc" hơn giống kiến Ốc-cô-phi-la nhiều.
Học chung với nó chừng mười phút, tôi biết ngay là nhà sinh vật mất căn bản trầm trọng từ những năm lớp dưới. Bài "Từ loại" đã học từ hồi lớp năm, lớp sáu, lên lớp bảy cũng ôn lại, vậy mà nó cứ lẫn lộn lung tung.
Tôi hỏi nó:
- Cái nhà là từ gì?
- Danh từ.
- Cuốn sách?
- Cũng danh từ.
- Xe hơi?
- Động từ.
Tôi ngạc nhiên:
- Tại sao xe hơi là động từ?
Nó đáp rất tự tin:
- Tại vì xe hơi chạy được! Cái gì chuyển động được thì cái đó là động từ chớ sao!
Cứ theo cái phương pháp suy luận ngớ ngẩn đó, Quang đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Tôi, với sự trợ giúp đắc lực của Bảy, đã phải làm đủ mọi cách để cho nhà sinh vật tối tăm đó hiểu được "xe hơi" là danh từ, còn "chạy" mới là động từ.
Đã vậy, nó lại mắc cái tật "máy móc".
Khi tôi phân tích trong câu "Tôi đi học" thì "tôi" là chủ ngữ, "đi học" là vị ngữ hoặc trong câu "Đất nước ta tươi đẹp" thì "đất nước ta" là chủ ngữ còn "tươi đẹp" là vị ngữ, thì Quang cứ đinh ninh chữ nào đứng ở đầu câu đều là chủ ngữ ráo.
Do đó, khi thầy Dân kêu nó lên bảng phân tích câu "Giữa cánh đồng, người nông dân đang gieo mạ" thì nó vội vàng gán cho "giữa cách đồng" là chủ ngữ khiến cái điểm hai ngữ pháp cứ đeo đẳng tổ tôi hoài.
Trong khi tôi ngồi đỏ mặt tía tai vì tức và vì ngượng khi "cậu ông trời" liếc tôi. Nó không nói gì nhưng ánh mắt thì như muốn hỏi: "Mày kèm cặp thằng Quang kiểu gì lạ vậy?" làm tôi nhột dễ sợ.
Quang xách tập đi xuống chưa kịp ngồi vô chỗ, tôi gắt liền:
- Mày làm ăn kiểu gì lạ vậy?
Biết lỗi, Quang im re. Nhưng tôi không tha:
- Ai gieo mạ? Theo mày thì ai gieo mạ?
- Thì người nông dân.
Tôi nhăn nhó:
- Vậy thì người nông dân là chủ ngữ chớ! Sao mày lại nói là giữa cánh đồng? Thiệt chán cho mày!
Nhưng cái "ông học trò" của tôi không chịu dừng lại ở những khuyết điểm đó. Nó còn mắc thêm cái bệnh "suy nghĩ vẩn vơ", không chú tâm vào điều gì lâu được. Ngồi học trong nhà mà nó cứ nghĩ đến chuyện ngoài trời. Chẳng hạn có lần tôi hỏi nó:
- Ví dụ bây giờ tao đặt 1 vị ngữ là "sủa", mày thêm chủ ngữ vô cho thành câu được không?
Câu hỏi dễ ợt, ai chẳng biết chủ ngữ là "chó", vậy mà nó ngồi im ru bà rù, lâu thiệt lâu. Tôi nóng ruột, thúc:
- Trả lời lẹ đi chớ! Câu hỏi dễ ợt mà nghĩ gì lâu quá xá cỡ vậy mày!
Ai dè nó lại nói:
- Mày biết giống chó Ét-ki-mô không? Chó Ét-ki-mô chính cống không bao giờ sủa như chó thường đâu nghen mày. Nó rú như chó sói, nghe khiếp lắm. Nhưng giống Ét-ki-mô, chó cái khôn hơn chó đực, vì vậy...
Té ra từ nãy đến giờ, nó không lo học ngữ pháp mà lo đi chơi ở Bắc cực. Tôi điên tiết, cắt ngang:
- Dẹp thứ chó Ét-ki-mô của mày đi! Học bài không chịu học, tối ngày cứ chó với mèo!
Nghe tôi hét, nó giật mình "tỉnh cơn mơ" và ngay lập tức đuổi bầy chó "rú y như chó sóí" kia ra khỏi tâm trí. Nhưng chứng nào tật nấy, hôm sau tôi viết ra giấy câu "Mùa xuân, chim bay đầy trời", chưa kịp hỏi nó, nó đã hỏi tôi:
- Đố mày, chim gì thường được dùng để đưa thư liên lạc?
Tôi đập bàn ầm ầm:
- Dẹp! Dẹp!
Bình thường, tôi rất mê những câu chuyện kỳ lạ về động vật của Quang, nhưng vào những lúc như thế này, tôi không sao chịu đựng nổi. Rút kinh ngiệm, kể từ đó về sau, đặt câu cho nhà sinh vật phân tích, tôi chẳng dám rớ tới một con vật nào. Toàn những câu đoại loại như "Xe lửa qua cầu" hoặc "Hoa nở khắp vườn" mà thôi.
Nhưng rồi, mặc dù chậm chạp như sên bò, Quang cũng dần dần chứng tỏ được sự tiến bộ của mình. Khi làm bài tập, thỉnh thoảng nó cũng hay quên đầu quên đuôi nhưng không bao giờ nó bị điểm hai hay điểm ba như trước. Thường là nó đạt điểm năm trở lên. Cũng như Bảy, bây giờ nó không ngán môn ngữ pháp nữa. Thành tích đó khiến tôi sung sướng vô kể.
Nhưng "sự kiện" làm tôi nở mày nở mặt nhất là mới đây để cho Bảy và Quang nắm chắc được nội dung của bài "Câu có cụm chủ-vị làm chủ ngữ", tôi đã làm bài thơ sau đây và bắt hai đứa chép vô tập:

Cụm chủ-vị khi làm chủ ngữ
Thường đằng sau có chữ "khiến cho"
Ví như: "Em bé nằm ho
Khiến cho cha mẹ phải lo suốt ngày"
Nhưng vị ngữ khi rày khi khác
Chữ "khiến cho" chưa chắc ở hoài
Đôi khi có một chữ "là"
Kéo theo sau nó cái toa "danh từ"
Lấy ví dụ: "Bạn hư hỏng quá
Là nỗi buồn của cả thầy cô"
Nếu đem "sự, cuộc, việc" vô
"Ngữ danh từ" bỗng bất ngờ hiện ra.
Bài ngữ pháp này là một trong những bài khó của học kỳ một. Trong lớp tôi, những đứa nắm vững ngay được bài này không phải là nhiều. Nhờ bài thơ của tôi, Bảy và Quang lập tức trở thành hai nhân vật trong cái nhóm thông thái ít ỏi đó.
Lúc ôn bài đầu giờ, tụi bạn ngồi chung quanh nghe Bảy và Quang lầm rầm đọc thơ, liền lên tiếng:
- Hôm nay học ngữ pháp chứ đâu học giảng văn! Tụi mày lộn rồi!
Tụi nó tưởng Bảy và Quang học bài "Hò Huế". Quang ưỡn ngực, khoe:
- Ai chẳng biết bữa nay học ngữ pháp! Đây là bài thơ ngữ pháp của nhóm tao!
Mấy đứa kia nghe vậy, tò mò xúm lại coi. Lập tức nhận rõ được giá trị của bài thơ, chúng bao vây Bảy và Quang, năn nỉ xin chép.
Tôi chứng kiến quang cảnh náo nhiệt đó ngay từ đầu, lòng hãnh diện không thể tả.
Thằng Lâm vừa hí hoáy chép vừa hỏi:
- Ai làm bài thơ "độc" quá vậy mày?
Bảy chưa kịp trả lời thì thằng Chí đã bô bô ra vẻ hiểu biết:
- Thằng Huy làm chớ ai! Nó mà làm thơ thì số một!
Trời ơi! Sao cái thằng bép xép này hôm nay dễ thương quá vậy không biết! Nghĩ tới chuyện trước nay mình không ưa nó, lương tâm tôi tự nhiên cắn rứt quá chừng.
Nhưng khoái thì khoái trong bụng, bề ngoài tôi vẫn giả vờ như không chú ý gì đến chung quanh, chỉ có hai tai dỏng lên hệt tai mèo lúc đang rình chuột. Và tôi sướng mê tơi khi nghe cái âm thanh ngọt ngào quen thuộc vang lên: "Quang cho Hiền mượn coi đi!". Chắc khi rao "Ai ăn chè không?", giọng nó cũng ngọt lịm như vậy.
Trong số những học sinh bị kêu lên bảng đặt câu hôm đó, Quang là đứa duy nhất làm đúng hoàn toàn. Và lần đầu tiên kể từ khi cha sinh mẹ đẻ, nó đạt điểm mười môn ngữ pháp. Khi nghe thầy Dân hô điểm, nó cảm động đến rưng rưng nước mắt và bất giác nắm lấy tay tôi. Tôi là đứa ưa giỡn mà thấy vậy, cũng đâm ra ngùi ngùi.
Thầy Dân khen Quang không tiếc lời. Một học sinh từ kém vọt lên giỏi là một tấm gương đáng học tập. Rồi thầy khen cả nhóm tôi và khen tôi biết giúp đỡ bạn học tập.
Thấy thầy đang biểu dương tôi, Chí vọt miệng:
- Bạn Huy làm bài thơ về cụm chủ vị hay lắm đó thầy!
Thầy Dân ngạc nhiên:
- Em nói thơ gì?
- Thơ ngữ pháp đó thầy.
Nói xong, nó đưa cho thầy Dân coi bài thơ mà nó vừa chép lại của Bảy. Trước cặp mắt hồi hộp của tôi, thầy vừa đọc vừa gật gù nhận xét:
- Một sáng kiến hay!

*
* *
Cái "sáng kiến hay" đó ngay sáng hôm sau đã xuất hiện trên bản tin, ở chỗ mà Lửa Thần trước đây thèm nhỏ dãi cũng không được.
Bài thơ nhanh :Dng lan ra trong cả lớp, rồi truyền qua các lớp tám khác. Tiếp đó chương trình phát thanh Măng Non của liên đội phát đi bài "Một sáng kiến đáng biểu dương" nói về bài thơ của tôi. Chính "kẻ thù" của tôi, nhỏ Kim Liên, viết bài báo này.
Lần đầu tiên trong đời, tôi phát hiện ra không gì hạnh phúc cho bằng làm những việc đem lại lợi ích cho mọi người.
Sau sự kiện đáng nhớ đó, Đại nhìn tôi với cặp mắt khác. Nó trở nên thân mật và cởi mở với tôi hơn. Dường như nó tìm thấy ở tôi không phải chỉ có tính cứng đầu. Học ngữ pháp, có những chỗ nó giảng hoài mà nhỏ Hiền vẫn không chịu hiểu, nó thường nhờ tôi giảng giùm. Bao giờ cũng vậy, tôi nhận lời một cách hănh hái.
Nhỏ Hiền giống thằng Quang ở tính siêng năng, lại hơn Quang ở chỗ không nghĩ ngợi vẩn vơ, do đó được "ông thầy" có kinh nghiệm như tôi hướng dẫn, nó hiểu bài rất mau. Tất nhiên là học chung với nó, tôi không dám giở trò la hét ầm ĩ hay đập bàn đập ghế rầm rầm như khi học với tụi thằng Quang. Ngược lại, tôi cố gắng bắt cái giọng lỗ mãng của mình nói năng nhỏ nhẹ, ôn hòa hết cỡ, còn về tính kiên nhẫn thì không chê vô đâu được.
Chỉ tiếc là những dịp để tôi chứng tỏ sự dịu dàng như vậy không nhiều. Đại là một học sinh giỏi, lâu lâu nó mới "cầu cứu" tôi một lần. Tôi cứ thầm mong môn ngữ pháp có thật nhiều chỗ khó để cho Đại "kẹt" thật nhiều lần. Và tại sao tôi lại mong như vậy, tôi cũng không hiểu.

Chương 9

Tôi thường mơ ước đến một ngày nào đó, tất cả mọi nhà trường trên trái đất sẽ chỉ dạy mỗi một môn văn. Nhưng trong khi chờ ước mơ đẹp đẽ đó thành sự thật thì tôi vẫn phải è cổ ra học các môn khác, nhất là môn toán mà tôi thường gọi chệch đi là môn "oán". Tôi oán nó dễ sợ.
Chính vì nó mà trong nhóm "ba bạn cùng tiến" của chúng tôi chỉ có Bảy và Quang là tiên thực sự, còn tôi thì vẫn lẹt đẹt đằng sau, chẳng ra làm sao. Tôi làm "thầy" thiên hạ thì giỏi mà đến khi làm "học trò" thì lại không giống ai. Nhà sinh vật đã đạt được cái điểm mười :Dt vót của môn ngữ pháp rồi mà tôi thì vẫn quanh quẩn với mấy điểm ba, điểm bốn toán, không làm sao ngoi lên được điểm trung bình. Quang cũng kém toán như tôi nhưng được Bảy kèm một thời gian nó có khá lên được chút xíu, thỉnh thoảng còn được điểm sáu, chớ tôi thì tuyệt nhiên không. Dường như khoảng từ năm tới mười trong môn toán không phải là khu vực dành cho tôi. Tôi nghĩ vậy và biết thân biết phận không bén mảng tới đó.
Ngay sau buổi học nhóm đầu tiên ở nhà tôi, phấn khởi trước kết quả rực rỡ của bài giảng về văn nghị luận, tôi hào hứng sáng tác ngay một khẩu hiệu "dẹp điểm hai, bài điểm ba, xa điểm bốn, trốn điểm năm, căm điểm sáu, quý báu gì điểm bảy, quyết nhảy qua điểm tám, bám điểm chín, vịn điểm mười". Đọc đi đọc lại, tôi phục tài tôi quá xá và tính đem lên lớp khoe với thằng Đại. Nhưng chợt nghĩ đến môn toán, tôi giật thót người và giấu biến ngay câu khẩu hiệu, không dám hó hé với ai, kể cả Bảy. Tụi nó mà biết được, bắt tôi thực hiện theo "sáng tác" của mình, chắc tôi chết. Điểm năm nó trốn tôi thì có chớ tôi sức mấy mà "trốn điểm năm". Tìm mỏi con mắt không được chớ trốn tránh gì. Rồi tụi nó chơi cá bắt tôi "nhảy qua điểm tám", chắc tôi té lọi cẳng.
Đại thường nói với tôi:
- Dạy văn với học toán, mày chỉ hoàn thành xuất sắc có một nhiệm vụ. Nhóm mày như vậy là chưa ngon!
Tôi cứng họng. Thằng quỷ, nó nói đâu có đó. Ở "đôi bạn" của nó, nhỏ Hiền tiến chậm nhưng chắc, đều các môn. Còn ở nhóm tôi thì sau khi giúp cho Bảy và Quang tiến, tôi ung dung "đứng lại" một mình.
Từ khi hết "bám đuôi" được Bảy, trong thâm tâm tôi cũng ao ước học giỏi môn toán như môn văn. Nhưng dự định là một chuyện còn thực hiện được dự định đó hay không lại là một chuyện hoàn toàn khác.
Ngay buổi học toán đầu tiên, tôi đã dội ngược.
Biết tôi mất căn bản, Bảy không giảng ngay vô chương trình lớp tám mà ôn lại chương trình lớp bảy.
Nó vẽ hai đường thẳng song song và một cát tuyến cắt ngang, rồi bắt đầu giảng về các cặp góc bằng nhau. Ôi, thôi thì đủ loại: nào là góc so le trong, góc so le ngoài, góc trong cùng phía, góc đồng vị... Tôi rối mù cả lên.
Năm ngoái tôi đã học bài này rồi. Nhưng lúc đó, góc nào muốn so le với góc nào thì mặc xác, trí óc tôi vẫn thảnh thơi như thường. Tôi chỉ việc ngồi nghĩ ngợi vẩn vơ và chờ "cóp-pi" thằng Bảy. Còn bây giờ, phải tự mình hiểu bài lấy đích thị là một cực hình.
Giảng xong, Bảy kiểm tra. Nó hỏi tôi:
- Hai góc này là hai góc gì?
- À ... đó là hai góc so le ...
- So le gì ? Trong hay ngoài ?
Tôi ngần ngừ:
- À ... à ... ngoài!
Bảy lắc đầu:
- Sai rồi! Đây là hai góc so le trong, còn khi chúng nằm ngoài hai đường thẳng song song thì chúng là so le ngoài.
Bảy quay sang Quang:
- Hai góc này là hai góc gì ?
Quang nhanh nhẩu:
- So le ngoài.
- Đúng rồi! Còn hai góc này ?
Quang hơi phân vân:
- Góc trong cùng phía hả mày ?
Bảy gật gù, khen:
- Ừ, khá lắm!
Nhà sinh vật chưa chắc đã thông minh hơn tôi nhưng nhờ nãy giờ nó chăm chú nghe nên trả lời trúng phóc. Điều đó khiến tôi ganh tị. Tôi giục Bảy:
- Mày giảng lại một lần nữa đi! Lúc nãy tao không để ý!
Bảy nguýt tôi:
- Học mà không để ý!
Nói vậy nhưng nó vẫn kiên trì giảng lại. Tôi giỏng tai nhướng mắt một cách chăm chỉ. Và lần này thì Bảy hỏi đâu, tôi đáp đó ngon lành:
- Gì đây ?
- So le trong.
- Gì đây ?
- Góc ngoài cùng phía.
- Gì đây ?
- Đồng vị.
Bảy tươi cười:
- Giỏi! Học vậy mới là học chớ!
Tôi còn tươi tỉnh hơn Bảy. Chà, té ra học toán cũng không đến nỗi khó lắm, miễn là phải tập trung chú ý một chút! Nghĩ vậy, tôi quyết chứng minh cho thằng Bảy biết là sở dĩ trước nay tôi dòm bài nó bởi vì tôi không thèm học toán chớ không phải tôi không học nổi môn này.
Nhưng khi Bảy đi vào chứng minh trường hợp các góc bằng nhau thì quyết tâm của tôi coi bộ muốn lung lay. Hai đường thẳng song song với một đường cát tuyến đã là nhiều rồi, vậy mà nó còn vẽ thêm một đường thẳng thứ tư nữa, khiến mọi sự rối rắm hẳn lên. Lại còn "giả sử" này "giả sử" kia nữa. Phức tạp! Tôi vốn sợ những bài toán phải vẽ thêm rồi "giả sử". Vẽ đúng những điều đề toán đã cho tôi vẽ còn chưa ra nữa là thêm với thắt.
Nghe Bảy chứng minh một hồi, tôi chép miệng, nói:
- Hai góc đồng vị đương nhiên là bằng nhau rồi, cần gì phải chứng minh cho mệt! Dòm vô là thấy bằng nhau liền hà!
Bảy trợn mắt:
- Đâu có được! Tất cả mọi định lý đều cần phải chứng minh. Chỉ có các tiên đề Ơ-clit mới khỏi phải chứng minh.
Tôi ngạc nhiên một cách thành thật:
- Sao vậy mày ?
- Bởi những tiên đề Ơ-clit đều dễ hiểu và hiển nhiên, được mọi người thừa nhận do đó không cần phải chứng minh. Ví dụ, qua một điểm ngoài một đường thẳng song song với đường thẳng đó mà thôi. Hoặc, qua hai điểm ta chỉ có thể vẽ được một đường thẳng. Những điều này đã học rồi mà mày quên.
Đúng là tôi đã quên phắt Ơ-clit. Nhưng Bảy thì không quên tôi. Nói xong, nó bắt tôi chứng minh lại sự bằng nhau của hai góc đồng vị.
Tôi cố nhớ lại phương pháp chứng minh Bảy đã giảng nhưng không tài nào nhớ được. Đúng là thoạt đầu nó có vẽ thêm một đường thẳng đi ngang qua giao điểm F, nhưng rồi sau đó thì sao ?
Tôi loay hoay một hồi rồi buông viết, tặc lưỡi:
- Thôi, khỏi cần chứng minh nữa!
Bảy kinh ngạc:
- Sao kỳ vậy ?
- Tao thừa nhận sự bằng nhau của hai góc đồng vị là hiển nhiên, không thể chối cãi.
Bảy nảy người trên ghế:
- Ý, trời ơi, đâu có được! Tất cả mọi người thừa nhận mới có giá trị chớ mình mày thừa nhận thì ăn thua gì!
Tôi khịt mũi:
- Không ăn thua gì, nhưng...
Bảy tròn mắt:
- Nhưng cái gì ?
Tôi nhăn mặt:
- Tao đau bụng quá!
Bảy cười:
- Thôi đừng giả bộ! Mày tính trốn học phải không?
Tôi tiếp tục nhăn nhó:
- Tao đau thiệt mà! Hôm qua tao ăn gần nửa trái mít.
Quang xen vô:
- Nó nói xạo đó, Bảy ơi! Đừng tin nó!
Tôi liếc Quang, sừng sộ:
- Ai mượn mày xía vô ? Học không lo học, cứ ưa thò mũi vô chuyện người khác!
Nói xong, tôi quay phắt người đi xuống nhà dưới, mặc cho hai đứa trố mắt ngó theo.
Tôi ngồi lâu thiệt lâu, hy vọng Bảy sẽ nản chí mà quay sang "chăm sóc" thằng Quang.
Y vậy, khi đi lên, tôi thấy Quang đang ngồi gãi đầu gãi cổ, mày mò chứng minh cái định lý mà tôi đã "thừa nhận". Bảy đứng chồm người trên bàn quan sát, thỉnh thoảng lại kêu lên "trời ơi" khi Quang "trật đường ray". Những lúc đó, mặt mày thằng Bảy nhăn nhó bắt tức cười.
Thừa lúc hai đứa chúi mũi vô bài toán, tôi lẳng lặng nhón gót đi ra cửa. Nhưng Bảy đã trông thấy, nó kêu giật giọng:
- Ê, Huy! Đi đâu đó ?
- Tao chạy về nhà chút xíu.
- Đang học mà bỏ đi đâu! Quang làm xong rồi đây nè. Giờ tới lượt mày đó!
Tưởng sao, tới lượt mình thì mình càng phải đi! Tôi nói, chân bước qua ngạch cửa:
- Tao về dặn thằng Tin cái này một chút rồi trở qua liền.
Bảy còn nói vói theo câu gì đó nhưng tiếng xe cộ ầm ĩ ngoài đường át mất, tôi không nghe rõ.
Ra khỏi nhà nó như chim sổ lồng, tôi chạy một mạch về nhà, lòng nhẹ nhõm.
Tôi định tìm thằng Tin rủ nó đánh vài ván cờ chơi nhưng lại bắt gặp nó đang ngồi ôm tay nhăn nhó sau hè.
- Tay mày sao vậy ?
- Em đóng đinh.
Bên cạnh nó, chiếc búa nằm lăn lóc với dúm đinh. Kế đó là chiếc ghế đẩu gãy một chân đứng chỏng chơ.
Tôi nhặt chiếc búa lên, hừ một tiếng:
- Đóng ba cây đinh mà cũng không biết cách! Ngó tao đây mà bắt chước!
Tôi ráp cái chân ghế vô và bắt đầu đóng. Tin lặng lẽ theo dõi. Thấy vậy, tôi càng ra bộ nhà nghề, tay nhắp nhắp chiếc búa. Nhưng tôi mới đóng được ba, bốn nhát, chiếc đinh đã cong queo. Thay cây đinh khác, cũng vậy.
- Đinh dỏm!
Tôi lầm bầm và cầm lên cây đinh mới. Lần này, hai ngón tay tôi kèm cây đinh thật chặt, tay kia giáng một nhát búa thiệt mạnh sau khi đã nhắp tới nhắp lui kỹ lưỡng. Bất thần, cây đinh trượt đi, và cục sắt phản chủ nện lên hai ngón tay tôi một cú như... búa bổ.
Tôi kêu "ối cha" và buông cây búa rớt xuống đất trong khi Tin khoái chí:
- Ha ha! Không biết ai bắt chước ai!
Tôi trừng mắt dòm nó và sau một hồi xuýt xoa, tôi lại cầm cây búa lên, kiên quyết đóng chiếc ghế cho bằng được trước sự ngạc nhiên của Tin. Nó xề lại gần tôi:
- Để em vịn cho anh đóng.
Tôi gặt phắt:
- Khỏi! Để mặc tao!
Tôi hì hà hì hục hơn một tiếng đồng hồ mới đóng xong chiếc ghế. Lúc này đã hơn bốn giờ chiều, có nghĩa là buổi học toán sắp kết thúc. Tôi an tâm phóng tới nhà Bảy.
Khi tôi bước vô, Quang đã xếp tập chuẩn bị ra về. Thấy tôi, Bảy trề môi:
- "Chút xíu" của mày là vậy đó hả ?
Tôi cười giả lả:
- Tao kẹt chuyện nhà.
Bảy "hừ" giọng:
- Lần này là lần đầu mà cũng là lần :Dt tao để cho mày đi. Bữa sau thì đừng hòng.

*
* *
Nói sao làm vậy, trong buổi học toán tiếp theo, Bảy không cho tôi rời khỏi bàn nửa bước. Khi làm "thầy", tôi oai bao nhiêu thì khi làm "thầy" Bảy cũng oai bấy nhiêu. Nó vốn là đứa dễ tính, hay nể chiều bạn bè, vậy mà khi kèm toán, nó trở nên cứng rắn không chịu được. Bảy không có thói hò hét, quát tháo như tôi, nhưng không vì vậy mà nó dễ dàng để tôi chuồn khỏi buổi học lần thứ hai. Tất cả mọi thứ bệnh hoạn mà loài người mắc phải từ khi có mặt trên trái đất, tôi đã đều đem ra "vận dụng" nhưng Bảy không xiêu lòng một mảy may. Nó nhếch mép:
- Mày chỉ có mỗi một bệnh là bệnh làm biếng thôi!
Ngay cả ngón đòn "ruột" của tôi cũng không đánh quỵ được Bảy. Mỗi khi nghe tôi gạ:
- Để tao chạy về nhà lấy cuốn truyện vụ án cho mày mượn.
Nếu như hồi trước, làm gì có cái chuyện "để mai" này. Hễ nghe tôi có cuốn truyện vụ án mới nào là Bảy nằng nạc đòi mượn ngay tức khắc, dù lúc đó đang ở đâu và làm gì. Nó làm như để lâu cuốn sách sẽ lên men và hết hay đi vậy. Nhưng gần đây, kể từ hồi học nhóm tới giờ, với sự kèm cặp và chế giễu của tôi, nó đã bớt mê loại chuyện ly kỳ, hồi hộp. Nó đã chịu đọc những quyển "Người mẹ cầm súng", "Hòn Đất", "Tắt đèn", "Đất nước đứng lên" v.v... là những cuốn mà trước đây có cho kẹo nó cũng không rớ tới lấy một trang. Không những vậy, Bảy còn tự động trích văn vô sổ tay văn học chứ không thèm chép nguyên xi từ cuốn sổ của tôi như hồi mới đầu nữa.
Tôi hỏi nó:
- Cuốn "Người mẹ cầm súng" hay không mày ?
- Hay chớ.
- Thiệt không ?
- Thiệt! Năm ngoái học một đoạn, không thấy hay. Bây giờ, đọc nguyên cuốn mới thấy "đã". Tao khoái mẹ con chị Út Tịch.
Tôi nheo mắt:
- Hay hơn cuốn "Vụ án lúc 0 giờ" không?
Nó ngần ngừ:
- À ... mỗi cuốn hay mỗi kiểu.
Tôi không mong nó trả lời "Hay hơn". Nó nhận xét như vậy cũng là tiến bộ lắm rồi. Nhưng chính sự tiến bộ đó hiện giờ làm tôi khổ. Nó nhất định không cho tôi chạy về nhà.
Tôi ngồi học cứ như chịu cực hình, thiệt chẳng bì với thằng Quang. Nhà Bảy mà tôi có cảm tưởng như nhà tù, thời gian dài dằng dặc. Chỉ thỉnh thoảng em nó khóc nhè, Bảy rời bàn học chạy lại dỗ dành, tôi mới thấy dễ thở đôi chút. Nhưng bực một cái là em nó ít khóc quá, thiệt bậy! Con nít phải khóc nhiều mới nở phổi! Tôi nhớ ai đó đã từng nói như vậy.
Bữa nay, Bảy giảng về hình tam giác. Tôi cứ lẫn lộn hoài trung tuyến với trung trực khiến Bảy nhăn nhó:
- Dễ ợt vậy mà quên hoài!
Bảy kêu dễ mà sao tôi chẳng thấy dễ chút nào. Nhưng cái đó chưa kinh. Khi học tới trường hợp hai tam giác bằng nhau, đầu óc tôi mới thật sự rối tung. Nó giảng đã đời rồi vẽ hai tam giác, cho góc này bằng góc kia, cạnh kia bằng cạnh nọ, xong hỏi tôi:
- Hai tam giác này bằng nhau không?
- Bằng nhau.
- Bằng đâu mà bằng! Có một góc với một cạnh bằng nhau thì hai tam giác không bằng nhau được.
Nó lại vẽ hai tam giác khác:
- Bây giờ hai tam giác này bằng nhau không?
Lần này tôi thấy có thêm một góc bằng nhau, liền hí hửng:
- Bằng chớ.
- Bằng là mày bằng đó! Ngồi không chịu nghe gì hết!
Tôi trố mắt:
- Sao lạ vậy ? Bây giờ có tới hai góc và một cạnh bằng nhau kia mà ?
Bảy lại nhăn mặt:
- Nhưng mà cạnh đó phải nằm giữa hai góc kia! Ở đây nó nằm lọt tuốt ra ngoài, đâu có bằng được!
Bảy giảng lại lần nữa. Tôi căng óc cố nhớ. Trường hợp thứ nhất, hai tam giác bằng nhau khi có một góc bằng nhau nằm giữa hai cạnh bằng nhau. Trường hợp thứ hai, một cạnh bằng nhau nằm giữa hai góc bằng nhau. Thứ ba, ba cạnh đều bằng nhau. Tôi nhẩm trong miệng một hồi, góc cạnh nằm lộn xộn hết ráo.
Nghe tôi đọc "hai góc cạnh nhau nằm giữa một cạnh bằng nhau", Bảy đưa tay bịt hai lỗ tai:
- Thôi thôi, đừng đọc nữa! Mày đọc một hồi chắc tao phát điên mất!
Tôi thở dài:
- Nhưng mà tao phát điên trước mày! Toán với tiếc gì mà rối rắm!
Thấy tôi thê thảm quá, Bảy động viên:
- Thôi, ráng lên! Thằng Quang đã thuộc rồi đó!
Để giúp tôi, Bảy ghi tắt các công thức bằng ký hiệu. C.g.c tức là một góc bằng nhau nằm giữa hai cạnh bằng nhau. Tương tự như vậy, hai trường hợp kia là g.c.g và c.c.c.
Từ khi những câu nói rắc rối, khó nhớ kia được chuyển thành ký hiệu, tôi thấy dễ học hơn. Nhưng để cho nhớ dễ hơn nữa, tôi "chế biến" các ký hiệu cứng đơ thành một ngôn ngữ sống động, đầy hình ảnh. Tôi đọc c.g.c. thành con gà con, g.c.g. thành gà con gáy và c.c.c. là cúc cu cu. Tất nhiên là sau khi bầy gà xuất hiện, tôi thuộc nhão như cháo.
Thoạt đầu, nghe tôi trả lời, Bảy tặc lưỡi chán ngán:
- Học không lo, cứ lo giỡn!
Nhưng sau khi nghe tôi trình bày "phát minh", Bảy phục sát đất, và đồng ý cho tôi đưa gà vô toán học. Thằng Quang đã học thuộc lòng trường hợp bằng nhau của các tam giác rồi, vậy mà nó cứ đòi học thêm "công thức gà" của tôi. Điều đó khiến tôi khoái chí vô cùng. Thằng Quang xin học thêm công thức của tôi thì Bảy sẵn lòng nhưng hễ nó mở miệng "Tụi mày có biết không, ở Nam Mỹ có một giống gà..." thì Bảy cắt cụp liền.
Thế là từ đó về sau, hễ thấy cái gì có thể "chế biến" ra "ngôn ngữ văn học" là tôi chế liền và do vậy tôi đỡ "oán" môn toán hơn.
Một bữa, Đại rủ nhỏ Hiền tới thăm nhóm tôi. Gọi là thăm chứ thiệt ra tôi biết "cậu ông trời" đi kiểm tra coi tôi học toán ra sao mà ở lớp cứ ì ạch như trâu kéo cày.
Cuộc đối đáp giữa Bảy và tôi khiến Đại và Hiền sửng sốt.
- Những trường hợp bằng nhau của hai tam giác? - Bảy hỏi.
- Con gà con và gà con gáy.
- Gì nữa ?
- Cúc cu cu.
- Còn trường hợp tam giác đồng dạng?
- Gà gô gáy.
Gà gô gáy tức là có ba góc bằng nhau. Trường hợp tam giác đồng dạng là Bảy giảng thêm cho tôi với Quang khi tôi cứ khăng khăng cứ hễ hai tam giác có ba góc bằng nhau thì dứt khoát chúng phải bằng nhau.
Trong khi nhỏ Hiền che miệng cười khúc khích thì Đại nghiêm mặt, trách:
- Tụi mày học hành cà rỡn như vầy hèn gì thằng Huy cứ lẹt đẹt sau lưng thiên hạ hoài!
Tôi giả bộ im lặng, cố tình chọc cho "cậu ông trời" lên giọng góp ý, phê bình lâu lâu chút chơi nhưng Bảy không nhịn được cười trước bộ mặt thất vọng của Đại, nó cười phá lên và kể ra "công thức gà" của tôi.
Nghe xong, Đại phì cười. Còn nhỏ Hiền thì reo lên:
- Hay quá hén! Huy đọc lại một lần nữa cho Hiền nghe đi!
Hết "coi đi" tới "nghe đi", cô bạn này làm tôi mát cả ruột gan.
Nhưng dù sao đi nữa, đối với tôi toán vẫn là một môn khó nuốt. Không phải định lý nào, công thức nào cũng có thể biến thành gà vịt được. Đó là chưa kể đến môn đại số quái quỷ, vốn không dành cho những người cẩu thả như tôi. Chính vì vậy, học gần hết học kỳ một mà trình độ toán của tôi chẳng tiến bộ được bao nhiêu, dù Bảy kèm rất tận tình.

Chương 10

Mới đó đã gần bốn tháng. Vườn bạch đàn của chúng tôi bây giờ đã tươi tốt, xanh um, có cây cao tới hai mét. Các vườn cây láng giềng của các lớp tám, lớp chín khác cũng vậy. Mới ngày nào đây, khu vườn còn là một miếng đất hoang đầy cỏ rác vậy mà thoáng một cái, mặt đất đã phủ đầy màu xanh và bóng mát. Mỗi buổi sáng, ngồi trong lớp học nhìn ra những ngọn cây bạch đàn nhú bên ngoài cửa sổ, lòng chúng tôi thấy vui lạ lùng.
Trong giờ sinh hoạt lớp, sau khi thằng Hùng hớn hở báo về kết quả cây trồng, thầy Dân không tiếc lời khen gợi chúng tôi, đặc biệt là tổ năm, bởi vì hàng cây tổ năm lớn đều nhất và được rào chắn kỹ lưỡng nhất. Mấy đứa trong tổ tôi phấn khởi ra mặt, nhất là thằng Đại. Nó nhìn tụi tôi cười cười như để chia sẻ niềm vui trong lòng nó. Riêng tôi, tôi chỉ vui vừa phải bởi vì ngẫm nghĩ kỹ tôi thấy mình chẳng xuất sắc gì trong việc chăm sóc cây của tổ.
Lớp tôi có mười tổ. thằng Hùng phân công mỗi tổ phụ trách tưới cây mỗi ngày, đủ mười ngày thì giáp vòng trở lại. Kể từ ngày bị làm tự kiểm trước lớp về vụ tráo cây của thằng Tấn, bản thân tôi cũng có nhiều thay đổi. Chiều nào trực tưới cây tôi cũng vô trường, không "bận việc nhà" hay "bệnh hoạn" đột ngột như trước kia. Nhưng đó chỉ là sự tiến bộ so với chính tôi thôi chớ so với những đứa trong tổ thì chẳng ăn thua gì. Đại là tổ trưởng thì khỏi nói. Chỉ kể ba đứa còn lại thôi. Quang nhà xa hơn tôi. Bảy sức khỏe yếu hơn tôi. Hiền "bận việc nhà" chính đáng hơn tôi. Vậy mà không đứa nào nghỉ tưới cây lấy một bữa. Chiều nào trực vườn, nhỏ Hiền đổi ca với má nó. Má bán buổi chiều, con bán buổi tối.
Đó là chưa kể trong những buổi trực, Quang còn lên gặp dì Ba mượn cuốc về và mấy đứa xúm lại cuốc cuốc đào đào. Quang nói làm như vậy cho đất xốp, thoáng, cây mau lớn. Tôi thì chẳng khi nào rớ tới cây cuốc. Tưới nước xong, tôi coi như hoàn thành nhiệm vụ và tếch ra sân trước chơi đá cầu với tụi học sinh buổi chiều. Cái chính là do tôi lười nhưng một phần khác do Bảy cứ lải nhải bên tai tôi:
- Một tam giác có đường cao vừa là trung tuyến là tam giác gì?
- Muốn phân tích biểu thức khai triển của lập phương một nhị thức ta phải làm sao?
- ...
Ngay trong khi học nhóm, ngồi vô bàn đàng hoàng, chưa chắc tôi đã nghĩ ra nữa là đang lúc tưới cây. Bảy hỏi câu nào tôi bí câu đó, lòng đã bực, lại thêm thằng Quang cứ ngứa mồm xía vô:
- Trời ơi, dễ ợt vậy mà không nhớ!
Khiến tôi nổi điên. Nhưng Quang thì không đáng kể. Ngán nhất là nhỏ Hiền. Nó vừa tưới cây vừa lắng nghe cuộc truy bài nhóm tôi. Thấy tôi ấp a ấp úng không trả lời được, chắc nó chê tôi ghê lắm. Nghĩ tới đó, tôi nóng ran mặt mày, gắt:
- Hỏi gì hỏi hoài! Đây là giờ lao động chớ đâu phải giờ học!
Bảy chưng hửng:
- Mày nói gì lạ vậy? Giờ nào ôn bài chẳng được! Tuần trước, chi đội phát động phong trào "Ôn bài mọi nơi, truy bài mọi lúc", mày quên rồi sao?
- Vậy tới lượt tao hỏi mày nè! Trong câu "Anh bộ đội ấy vai đeo ba lô nặng trĩu", vị ngữ là gì?
- Là cụm chủ-vị "vai đeo ba lô nặng trĩu" chớ gì!
Nó trả lời trúng phóc càng làm tôi điên tiết:
- Còn câu này "Thằng Bảy ngốc nghếch cứ hỏi luôn mồm". Chủ ngữ là gì? Ai hỏi luôn mồm?
Bảy đỏ mặt:
- Dẹp mày đi! Tao không thèm trả lời.
Chỉ đợi có vậy, tôi tuyên bố:
- Mày không học nữa thì thôi nghen! Tao ra sân trước chơi đây.
Đại nãy giờ im lặng theo dõi cuộc "ôn lại cho nhớ" giữa hai đứa tôi, bỗng thấy tôi phá ngang và sắp sửa chuồn, nó kêu lên:
- Ơ ... sao lại ...
Nhưng mặc cho nó kêu, tôi chạy tuốt.
Chính vì những lẽ đó mà hôm nay được thầy Dân khen, tôi không cảm thấy vui lắm. Thậm chí tôi còn cảm thấy ngường ngượng với mấy đứa trong tổ.
Sau khi tổng kết các phong trào thi đua trong tuần, thầy Dân nói:
- Còn khoảng mười hôm nữa là đến ngày Kỷ niệm thành lập quân đội nhân dân. Đó là dịp để tất cả chúng ta, người lớn cũng như trẻ em, bày tỏ lòng biết ơn các anh chiến sĩ. Sỡ dĩ ngày hôm nay đất nước thanh bình, các em được bình yên học tập dưới mái trường chính là nhờ các anh chiến sĩ ngày đêm xông pha sương gió, chịu đựng bao nhiêu hy sinh gian khổ để giữ gìn biên cương Tổ Quốc.
Nói xong, thầy kêu chúng tôi mỗi đứa viết một lá thư và gởi một món quà cho các anh bộ đội. Khoảng ba, bốn ngày nữa, anh Quý, tổng phụ trách đội, sẽ cùng đi với các anh chị bên Quận đoàn ra thăm biên giới phía bắc, ảnh sẽ mang thư và quà đến tận tay các chiến sĩ.
Thằng Chí thắc mắc:
- Thưa thầy, chúng em phải gởi quà gì ạ?
- Quà gì thì tùy khả năng các em, không cần phải thứ đắt tiền. Các em có thể gởi những món quà vừa khả năng của mình đồng thời lại tiện dụng cho các anh bộ đội như khăn tay, xà phòng, bút chì, bàn chải đánh răng, bao thư v.v...
Nghe vậy thằng Quang vỗ vai tôi, khoe:
- Nhà tao có hai cục xà phòng mới tinh. Ba tao mới mua hàng tiêu chuẩn.
Tôi nhún vai:
- Tưởng gì! Xà phòng ở nhà tao thiếu gì!
Đúng lúc đó, nhỏ Hiền quay sang:
- Anh của bạn Đại là bộ đội đó nghen!
Tụi tôi tròn mắt:
- Thiệt không?
- Thiệt chớ! Hôm trước ảnh về phép, Hiền gặp đàng hoàng!
Bảy chớp mắt:
- Dám kỳ này anh nó nhận được quà của nó lắm à!
Nhỏ Hiền lúc lắc đầu:
- Không có đâu! Anh Quý mang quà ra phía bắc, còn anh của bạn Đại đóng ở phía tây nam, làm sao nhận được!
Bảy và Quang cứ xuýt xoa hoài về cái khoản "có anh đi bộ đội" của Đại khiến tôi phát ghen. Chà, kể ra có một ông anh bộ đội cũng oai thiệt! Nhưng không sao, tôi sẽ có cách "oai" của tôi.
Trưa đó, tôi hỏi ba tôi:
- Ba cho con xin một cục xà phòng nghen ba?
- Thì xà phòng trong nhà muốn xài thì lấy xài chớ hỏi gì?
Tôi ngập ngừng gạ tiếp:
- Ba... mua cho con bàn chải đánh răng nữa nghen?
Ba tôi đang bận đọc báo, ông gật gù dễ dãi:
- Ừ.
Thấy chiều hướng có vẻ thuận lợi, tôi lấn tới:
- Rồi ba cho con xin một xấp bao thư nữa hén?
Lần này thì ba tôi buông tờ báo xuống, quay nhìn tôi:
- Con làm gì mà xin đủ thứ vậy? Con viết thư cho ai mà xin bao thư?
Tôi ấp úng:
- Con... đâu có viết thư cho ai.
Ba tôi càng ngạc nhiên:
- Ủa, thằng này lạ! Vậy con lấy bao thư làm gì?
Tôi đành phải thú thật:
- Con làm quà cho các anh bộ đội.
Ba tôi đập bàn đánh rầm một cái khiến tôi giật mình nẩy người:
- Làm quà cho bộ đội thì nói ngay là làm quà cho bộ đội, có gì mà phải xin với xỏ!
Vậy là ba tôi đồng ý. Nhưng tôi chưa chịu thôi:
- Bút chì nữa nghen ba?
- Ừ, bút chì.
- Cả khăn tay nữa!
- Thì khăn tay!
Ba tôi gật đầu nốt. Trong khi tôi đang hùng hổ "tấn công" ba tôi thì thằng Tin ôm cặp chạy ào vô nhà, hét toáng:
- Ba ơi ba, ba cho con một cục xà phòng nghen ba? Con tặng các anh bộ đội!

*
* *
Hôm cả lớp mang quà lên nộp, tôi nở nang mày mặt vì gói quà của tôi to nhất. Tụi bạn đứa thì đem xà phòng, đứa thì đem giấy bút, còn tôi thì đem đủ thứ. Ngoài các món quà mà đứa nào cũng có, tôi còn gởi các anh bộ đội hai gói trà và một cây thuốc lá Mai. Thực ra trà thuốc không phải do tôi nghĩ ra mà ba tôi tự động mua và chia cho tôi một nửa, Tin một nửa. Nhưng món quà của tôi sẽ giảm đi một phần ý nghĩa nếu không có chiếc khăn tay thêu hàng chữ "Kính tặng các anh bộ đội yêu quý của chúng em", phía dưới là một hàng chữ nhỏ "Phan Thanh Huy, họs sinh lớp 8A2, trường phổ thông cơ sở Bình Minh". Những hàng chữ này tôi nhờ nhỏ Hiền thêu giùm. Tụi con gái lớp tôi mỗi tuần học hai tiết nữ công nên đứa nào cũng biết thêu thùa, đan móc. Nhỏ Hiền là một trong những đứa thêu đẹp và nhanh nhất. Nó thêu cả hai tay trông cứ như máy.
Tôi chìa cái khăn của tôi ra khoe với Bảy:
- Khăn của tao có thêu hàng chữ đẹp không mày?
- Đẹp! Nhưng khăn của tao đâu có thua gì khăn của mày!
Nói xong, Bảy đưa khăn của nó cho tôi coi. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên đó những hàng chữ giống hệt trên khăn tôi. Quang cũng rút khăn của mình ra:
- Khăn tao cũng đẹp vậy!
Té ra nhỏ Hiền thêu khăn dùm cho cả tổ chứ không phải chỉ mình tôi. Vậy mà tôi cứ tưởng bở, cho là nhỏ Hiền có thiện cảm đặc biệt với mình. Con nhỏ này, thiệt chẳng ra làm sao! Tuy nhiên điều đó không làm tôi bớt sung sướng khi chung quanh tụi bạn cứ trầm trồ:
- Úi cha, gói quà của thằng Huy nhiều quá tay, tụi bây ơi!

*
* *
Chiều ngày hăm hai tháng mười hai, thầy Dân dẫn cả lớp đi xem triển lãm kỷ niệm ngày thành lập quân đội.
Hôm trước, nhỏ Kim Liên dặn chúng tôi:
- Đi xem triển lãm, các bạn nhớ đem theo giấy viết để chép tư liệu và ghi cảm tưởng của mình nghe chưa!
Tưởng gì chớ điều đó tôi đã dặn trước Bảy và Quang rồi, thậm chí tôi còn nhắc cả Đại và Hiền nữa.
Nhà triển lãm nằm cạnh Thảo cầm viên. Khi chúng tôi đến, ở đó đã mở cửa, người ra kẻ vào tấp nập. Rất nhiều học sinh các trường khác trong thành phố đến tham quan. Có cả học sinh ở các tỉnh lân cận nữa.
Thầy Dân bắt chúng tôi xếp thành hai hàng đứng đợi trước bậc thềm còn thầy thì đi vào trình giấy giới thiệu với các anh bộ đội trực trước cửa.
Quang đứng sau lưng tôi cứ nhấp nhổm dòm sang Thảo cầm viên:
- Lát nữa xin thầy Dân qua bên ấy chơi nghen mày!
- Qua coi kiến hả? - Tôi chọc.
- Dẹp mày đi! Giỡn dai nhách!
Lát sau, thầy Dân ngoắc chúng tôi vô. Phòng triển lãm lớn thật là lớn, chung quanh treo la liệt tranh ảnh và trưng bày vô số hiện vật. Chính giữa phòng là tượng Bác Hồ, cao gấp mấy lần người thật.
Nhưng khi anh bộ đội huớng dẫn bắt đầu nói thì tôi mới biết căn phòng chúng tôi vừa bước vô chỉ là một phần nhỏ của nhà triển lãm:
- Căn phòng này trưng bày và giới thiệu những hình ảnh và hiện vật của thời kỳ quân đội ta mới thành lập. Những căn phòng kế sẽ lần lượt giới thiệu các thời kỳ tiếp theo trong quá trình trưởng thành của quân đội cho đến ngày toàn thắng 1975 và sau đó, cho đến ngày hôm nay. Bây giờ xin mời các đồng chí và các em bắt đầu xem từ chỗ này...
Anh bộ đội vừa nói vừa giơ cây gậy nhỏ và dài trên tay chỉ vô một tấm ảnh, bắt đầu dẫn giải:
- Đây là hình chụp đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Ngày 22-12-1944, tại một khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉng Cao Bằng, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Đảng và Bác Hồ ủy nhiệm đã tuyên bố thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Người đội nón đen, tay cầm tờ giấy ở trong hình là đồng chí Võ Nguyên Giáp...
Tôi nhìn lên tấm hình, tò mò ngắm nghía cái "đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân" ít ỏi kia. Ăn mặc xuềnh xoàng, đủ cỡ đủ kiểu, chẳng đồng phục gì ráo, người nào cũng có bòng gạo đeo quanh vai, trông chẳng oai phong lẫm liệt chút xíu nào, vậy mà chỉ muời năm sau, cái đội quân này đã giáng cho giặc Pháp một đòn sấm sét ở Điện Biên Phủ làm chấn động cả thế giới, thật đáng kinh ngạc và khâm phục!
Anh bộ đội lại chỉ sang những hình ảnh và hiện vật khác, tiếp tục giới thiệu. Anh nói giọng bắc nhưng rõ ràng, rành mạch, dễ nghe. Theo sự dẫn dắt của anh, chúng tôi ngược thời gian theo bước chân các anh bộ đội đi qua những chặng đường chống Pháp gian lao. Cả lớp, kể cả những đứa nghịch nhất, cũng im lặng chăm chú nghe. Một số đứa hí hoáy ghi chép. Tôi thì tò mò dòm những khẩu súng lạ mắt kê trên những bục gỗ và cố lại gần đọc những hàng chữ ghi trên đó.
Khi chúng tôi bước qua phòng thứ hai, một anh bộ đội khác đón chúng tôi. Còn anh bộ đội cũ thì quay lại phòng mình để tiếp tục hướng dẫn tốp người tham quan mới. Cứ như vậy, chúng tôi đi xem hết phòng này đến phòng khác, nhiều ơi là nhiều! Các anh bộ đội làm công việc hướng dẫn, có cả các chị bộ đội nữa, thật là giỏi, không cần nhìn vô sách mà cứ nói thao thao về các trận đánh, giới thiệu các chiến dịch và giảng giải tỉ mỉ các hiện vật trưng bày.
Tổ chúng tôi đi xúm xít cạnh nhau. Cũng như tôi, mấy đứa kia ngoảnh đầu ngoảnh cổ ngắm không thiếu một thứ gì. Thằng Quang có tật táy máy, thấy gì lạ cũng đưa tay sờ. Nó mâm mê cái nỏ, nhận xét:
- Hồi đồng khởi ngộ quá mày hén! Đánh giặc bằng mấy thứ này, tức cười ghê!
Tức cười thiệt! Kế cái nỏ là mấy ngọn giáo, mũi bằng gỗ, không biết hồi đó chiến sĩ ta sử dụng như thế nào! Tôi đang thắc mắc thì Đại chỉ một khẩu súng:
- Cây súng này ngộ chưa cà!
Tôi nhìn theo tay Đại chỉ và thấy một ống sắt giống như khúc tre có chân chống, không ra vẻ gì là một vũ khí hết. Sau khi đọc những hàng chữ ghi chú, chúng tôi mới biết đó là súng ngựa trời của du kích Củ Chi dùng trong ngày đồng khởi. Nhưng điều đó chưa lý thú bằng phát hiện của Quang:
- Súng AK báng xếp của anh hùng Lê Mã Lương, tụi mày ơi!
Truyện Lê Mã Lương trong thư viện trường đứa nào cũng đã đọc qua nên khi nghe Quang reo lên, chúng tôi vội vàng xúm lại quanh khẩu AK đã đi vào huyền thoại kia. Cả mấy đứa tổ khác cũng đổ dồn lại, trầm trồ và sờ tay vào nòng súng mát lạnh. Thằng Tú còn tính nhấc cây súng lên đeo thử nhưng thầy Dân không cho.
Lát sau, tới phiên Bảy hô hoán:
- A, súng của chị Út Tịch nè!
Vẻ mặt Bảy hớn hở như bắt được vàng. Gần đây, nó rất mê chuyện mẹ con chị Út Tịch nên khám phá ra khẩu súng của chị đối với nó cũng quan trọng như Crít-tốp Cô-lông khám phá ra châu Mỹ. Tụi tôi lại bu lại. Đó là một khẩu cạc-bin báng xếp. Nhà sinh vật tỏ vẻ nghi ngờ:
- Phải súng của chị Út Tịch thiệt không mày?
Bảy hất hàm:
- Chớ gì nữa! Mày đọc tờ giấy chú thích kia kìa!
Quang gãi cổ:
- Thì của chị Út Tịch. Nhưng chắc gì là chị Út Tịch trong sách. Sách là người ta chỉ bịa ra thôi!
Bảy lộ vẻ lúng túng. Tôi liền giải vây:
- Không phải cuốn sách nào cũng tưởng tượng ra đâu. Chị Út Tịch là nhân vật có thiệt. Chị tên là Nguyễn Thị Út, được phong anh hùng. Nhà văn Nguyễn Thi đi dự đại hội anh hùng, gặp chị Út Tịch nên về viết cuốn "Người mẹ cầm súng".
Bảy liếc Quang:
- Đó, thấy không! Tao nói chị Út Tịch là chị Úy Tịch mà!
Nhưng cái thằng Bảy này, mặc dù gần đây đã có nhiều tiến bộ nhưng cái "máu điệp viên" vẫn còn chảy âm ỉ trong người nó. Chính vì vậy mà cây cạc-bin của chị Út Tịch cũng không giữ chân nó lâu hơn bức ảnh chụp đài quan sát trên ngọn cây của anh Thái Văn A ở đảo Cồn Cỏ. Chính từ trên đài quan sát được ngụy trang ở giữa tầng trời này, anh Thái Văn A đã bắn rơi máy bay Mỹ. Nó đứng ngắm hoài tấm ảnh, miệng hít hà:
- Ổ phục kích này hết sẩy hén mày! Phải chi tao được trèo lên đó một lần!
Nghe nó ao ước, tôi phì cười:
- Cái chân của mày đi dưới đất còn chưa xong nữa là leo lên cây!
Bảy thì vậy, còn Quang thì dán mắt vô những tấm ảnh chụp đàn voi thồ lương thực và vũ khí trên Tây Nguyên. Nó vừa coi vừa nói gì đó với Đại và nhỏ Hiền, còn hai đứa này thì vểnh tai nghe một cách chăm chú. Tôi nhón gót đi sè sẹ lại sau lưng, và đúng như tôi nghĩ, nhà sinh vật đang thao thao bất tuyệt về đời sống của voi:
- ... Khi voi bị phạm lỗi, người quản tượng xử phạt rất nghiêm, có trường hợp người ta mang con voi phạm lỗi ra bãi voi làng cho những con voi khác trừng trị...
Tôi tính chọc nó chơi nhưng thấy nó đang say sưa diễn thuyết nên thôi và lảng đi chỗ khác. Đập vô mắt tôi là một cái lưỡi cuốc cũ mèm, han gỉ, lại nhỏ bằng nắm tay. Tôi vừa lạ lùng về kích thước lưỡi cuốc vừa băn khoăn không hiểu cái lưỡi cuốc vứt đi này có gì hay ho mà cũng được trưng bày. Giữa bao nhiêu thứ vũ khí oai vệ khác chung quanh, cái lưỡi cuốc cũ kỹ nằm trơ vơ một cách lạc lõng. Tôi lại gần lẩm nhẩm đọc hàng chữ chú thích: "Đây là lưỡi cuốc của bà Võ Thị Thơi ở Củ Chi đã dùng để đào hầm trong hai mươi bảy năm liền". Tôi như không tin vô mắt mình. Trong hai mươi bảy năm, một khoảng thời gian dài dằng dặc, dài gấp đôi thời gian tôi có mặt trên đời, một người phụ nữ chân yếu tay mềm đã đào địa đạo bằng chính cái lưỡi cuốc nhỏ nhoi này. Kinh khủng! Tôi liền ngoắc mấy đứa trong tổ lại coi.
Nhỏ Hiền đọc tờ giấy liền le lưỡi:
- Thiệt là đáng nể! Hiền chắc chẳng khi nào làm được như vậy!
Con nhỏ nói lãng nhách! Nếu nó làm được như bà Võ Thị Thơi thì tên tuổi nó đã được trưng bày ở đây rồi còn gì!
Thằng Quang sờ tay lên lưỡi cuốc, chắc lưỡi:
- Đào riết, lưỡi cuốc mòn hết trơn, còn lại có chút xíu!
Không biết tụi bạn nghĩ sao chớ cái lưỡi cuốc cổ lỗ kia khiến tôi bâng khuâng ghê lắm. Nghĩ đến hình ảnh một người phụ nữ ngày đêm miệt mài đào hầm đánh Mỹ suốt gần ba chục năm, tôi cảm thấy một điều gì giống như là nỗi xấu hổ dâng lên trong lòng. Nhất là khi nãy, tôi rất ngỡ ngàng khi nhìn thấy chiếc xe đạp thồ đường Trường Sơn. Chiếc xe đạp rất đặc biệt. Vành hai lớp, căm to, vỏ cũng to. Chính giữ ghi-đông chần thêm một miếng sắt hìng tam giác, từ đó bắt song song với phụt hai que sắt lớn chạy thẳng xuống đùm. Mỗi bên tay cầm còn được nối dài thêm bằng một đoạn tầm vông. Chính chiếc xe đó đã thồ biết bao nhiêu tấn hàng đi trên đường núi cheo leo, hiểm trở, có khi vừa mở rừng vừa đi, ngày cũng như đêm, đưa lương thực, vũ khí, thuốc men ra mặt trận. Người thồ hàng không cỡi trên xe mà đi bộ, hai tay cầm hai đoạn tầm vông nối dài từ tay lái. Coi chiếc xe rồi nhìn lên các tấm hình chụp cảnh đoàn xe thồ đang làm nhiệm vụ mới thấy hết sức lao động kỳ diệu và ý chí sắt thép của con người.
Đi xem triển lãm về, bên cạnh những ấn tượng mới mẻ khác, hình ảnh xe đạp thồ và cái lưỡi cuốc mòn gỉ kia đã làm tôi nghĩ ngợi rất lâu.
Thằng Đại không biết gì về những nghĩ ngợi đó cho nên sáng hôm sau, khi tới lớp, thấy tôi lúi húi xới đất ngoài vườn cây, nó ngạc nhiên một cách thích thú:
- Ủa, sao hôm nay mày siêng bất tử vậy nè!

Chương 11

Kể từ ngày đi xem triển lãm về, tật làm biếng rời bỏ tôi, tất nhiên không phải cùng một lúc. Với những chuyện đã trải qua trước đó, tôi cũng mơ hồ nhận ra rằng chỉ có siêng năng, chịu khó mới thành công ở đời (thằng Quang là một tấm gương trước mắt, kể từ ngày kiên trì học nhóm, nó tiến bộ thấy rõ) và tính lười nhác không được ai nể nang. Nhưng phải đến khi "gặp" bà Võ Thị Thơi thì mọi chuyện mới rõ ràng đối với tôi. Từ việc học tập, lao động đến sinh hoạt, kiểm điểm lại, tôi thấy mình còn thua xa so với thiên hạ. Đầu đuôi cũng tại tôi ít chịu cố gắng. Tôi nhớ lại chuyện thằng Thành hôm trước. Nó với thằng Tú đều ở tổ mười, đều nghịch như nhau, nhưng thằng Tú nghịch mà siêng, còn Thành thì lười. Nó lười còn "ác" hơn tôi. Ai đời trực quét sân mà nó bỏ tới ba buổi liền. Thầy Dân nhắc nhở, cảnh cáo hai, ba lần nó vẫn không chừa. Tới lần thứ ba, thầy Dân gởi sổ liên lạc về nhà mời ba nó lên. Nó giấu biến sổ và nói dối thầy là ba nó bận. Thầy Dân tới nhà, mới rõ đầu đuôi sự việc. Thế là thằng Thành bị đưa ra hội đồng kỷ luật nhà trường. Bữa đó ba nó phải hứa hẹn đủ điều, lại phải làm tờ cam đoan nữa, thằng Thành mới được học tiếp.
Nghĩ tới chuyện đó, tôi phát ớn lạnh. Gì thì gì, tôi không bao giờ để bị đưa ra hội đồng kỷ luật. Nghĩ tới cảnh ba tôi phải ngồi trong văn phòng ban giám hiệu, đau xót nghe các thầy cô kể tội con mình, tôi thấy thà độn thổ cho xong.
Thấy tôi tự dưng đâm ra gọn gàng, ngăn nắp, chịu mó tay vô chuyện nhà, má tôi mừng lắm:
- Thằng Huy độ rày thay đổi quá xá!
Ba tôi phát biểu:
- Thì nó lớn rồi nó phải khá lên chớ!
Nghe khen, tôi khoái chí lắm. Lâu lắm rồi tôi mới được ba má khen tôi "khá", lại còn kèm theo "nó lớn rồi" mới hách xì xằng chớ. Điều thầy Dân nói từ đầu năm học đến nay mới có người xác nhận.
Thằng Tin thì chứng nào tật nấy. Tôi làm gì nó cũng tò tò đi theo sau lưng để coi thử tôi "thay đổi" như thế nào. Nhưng bây giờ thì tôi kệ xác nó, không thèm đếm xỉa. Tôi làm vì tự giác, vì tôi thích làm chớ đâu phải làm cho nó coi. Nó bám theo tôi suốt hai ngày, rồi tuyên bố:
- Anh siêng thiệt chớ không phải giả bộ!
Từ đó, tôi thoát khỏi sự quấy rầy của thằng em trời đánh.
Ở lớp cũng vậy. Trong những buổi trực sinh, tôi lao động thực sự chớ không phải miễn cưỡng như mọi khi. Còn việc chăm sóc cây thì khỏi chê. Đại không nói gì nhưng nó lộ vẻ hài lòng thấy rõ. Nhỏ Hiền dường như cười với tôi nhiều hơn. Những lúc bắt gặp ánh mắt ấm áp của Hiền, tôi nhủ bụng, nếu lớp giao mình tôi chăm sóc cả vườn cây nhất định tôi sẽ không từ chối. Nhưng lời khen "giá trị" nhất là của thằng Hùng, chi đội trưởng kiêm lớp phó lao động. Nó biểu dương tôi trong tiết sinh hoạt lớp:
- Bạn Huy trong thời gian qua đã có những tiến bộ lớn trong tham gia lao động. Đó là một tấm gương tự rèn luyện đáng học tập. Đề nghị chúng ta cho một tràng pháo tay!
Cả lớp vỗ tay rần rần khiến tôi đỏ bừng mặt, vừa sung sướng vừa ngượng ngùng. Một cảm giác mới mẻ tràn ngập hồn tôi. Tôi nhìn sang Bảy và thấy nó cũng đang nhìn tôi, nhe răng cười. Có lẽ nó cũng sung sướng không kém gì tôi.
Bảy sung sướng còn vì một lẽ khác nữa. Đó là, song song với việc tích cực lao động, tôi đã bắt đầu chăm chỉ học toán. Tôi quyết tâm phải chinh phục cho bằng được cái môn học nhức đầu này. "Oán" thì "oán" nhưng học thì vẫn phải học. Biết làm sao! Vì thế mà độ rày Bảy không phải vừa giảng bài vừa canh chừng cặp giò ưa chạy của tôi nữa. Mà cái môn toán kể cũng lạ! Học chăm chỉ chừng vài buổi, tôi phát hiện ra đằng sau cái bề ngoài rắc rối, bí hiểm của nó, môn toán lại là một môn học hết sức sáng sủa, rõ ràng. Bất cứ việc gì cũng có quy tắc của nó. Vấn đề là phải nhớ những quy tắc và biết áp dụng nó trong từng trường hợp cụ thể. Đó là cái chìa khóa để mở cánh cửa toán học. Trước giờ thấy cánh cửa này đóng kín mít, lại gắn một cái ổ khóa to tổ bố, tôi phát ngán, lo thối lui, lo "oán" nó mà quên việc đi tìm chìa để mở.
Bây giờ sau khi "tỉnh ngộ", sau khi kiên nhẫn ngồi dán mình vô bàn học ở nhà Bảy với một tinh thần cầu tiến thực sự, tôi đã nắm được cái chìa khóa vạn năng trong tay. Tất nhiên, cần phải biết cách mở khóa. Nhưng mở như thế nào, điều đó không lo, Bảy sẽ hướng dẫn tôi.
Nhưng tiếc một nỗi là, tôi tìm được chìa khóa hơi muộn màng. Vì vậy mới xảy ra sự kiện đáng nhớ sau đây.
Gần đến kỳ thi học kỳ một, liên đội trường tôi tổ chức những cuộc thi hái hoa đân chủ giữa các lớp cùng khối, vừa để vui chơi vừa nhằm kiểm tra tình hình ôn tập của học sinh. Cuộc thi giữa các lớp khối 8 được tổ chức vào chiều thứ bảy.
Vì không đủ thời gian nên đáng lẽ tất cả học sinh đều tham dự, điều lệ của ban tổ chức quy định mỗi lớp chỉ được cử mười người.
Ở lớp tôi, sau khi các tổ đề xuất, ban chỉ huy chi đội và ban cán sự lớp bàn bạc lựa chọn. Thực ra, trong những trường hợp như thế này , ý kiến của Kim Liên, lớp phó học tập, thường có tính chất quyết định.
Kết quả là trong mười người chọn đi thi, tổ tôi có tới ba mống. Tôi chịu trách nhiệm về những câu hỏi của môn văn, Bảy, môn toán và Quang, sinh vật. Đại học giỏi đều nhưng lại không xuất sắc hẳn môn nào nên không được đưa vào danh sách.
Một giờ chiều ngày thứ bảy, hội trường chật ních người. Ngoài những thí sinh chính thức, số học sinh còn lại của các lớp cũng kéo nhau tới trường, vừa ham vui vừa tò mò muốn theo dõi cuộc thi. Số khán giả dự thính này ngồi đầy nghẹt các dãy ghế phía sau và đứng chen chúc ồn ào ở cuối phòng, to tiếng bàn cãi và đánh cuộc về những đề thi cũng như về kết quả xếp hạng cuối cùng. Mười đứa lớp tôi ngồi vào hai dãy bàn có ghi chữ 8A2 bằng phấn trắng. Tôi, Bảy và Quang ngồi xúm lại một chỗ. Đứa nào đứa nấy hồi hộp liếc lên bàn ban giám khảo. Ở đó, có mặt tất cả các thầy cô dạy lớp 8 mà chúng tôi quen biết. Thầy Dân ngồi ngoài bìa, động viên tụi tôi bằng ánh mắt ấm áp, vui vẻ. Nhưng điều đó không làm cho tôi bình tĩnh. Thiệt lạ , trước bất cứ cuộc thi nào cũng vậy, kể cả cuộc thi điền kinh hằng năm trong trường, tôi luôn rơi vào tâm trạng bồn chồn, thần kinh căng thẳng một cách khó chịu, không cưỡng được.
Mấy đứa bàn dưới có vẻ tự tin hơn. Kim Liên và thằng Cang đang trao đổi với nhau gì đó về những câu hỏi sắp xảy ra lát nữa đây.
Bên cạnh bàn ban giám khảo, trước tấm bảng đen là một cây không rõ cây gì, trồng trong chậu sành, cành lá sum sê, có gắn rất nhiều hoa giả. Trên mỗi cành cây, lủng lẳng những mảnh giấy đủ màu cuộn tròn, trên đó ghi những câu hỏi mà lát nữa đây chúng tôi sẽ mở ra.
Không khí huyên háo, những lời thì thầm to nhỏ lập tức im bặt khi cô Thanh, giáo viên dạy văn chúng tôi năm lớp bảy, cũng là bí thư chi đoàn trường, bước ra bục gỗ, cầm lấy mi-crô. Bằng giọng nói rõ ràng, hơi nhấn mạnh chữ cuối câu, cô nhắc lại mục đích ý nghĩa của cuộc thi, giới thiệu các thầy cô giám khảo và cuối cùng chúc chúng tôi đạt được kết quả tốt trong cuộc thi hôm nay cũng như trong kỳ thi học kỳ một sắp tới. Sau đó, cô nhường mi-crô lại cho chị Quyên. Chị Quyên là học sinh lớp 9, ủy viên học tập của liên đội, sẽ là người trực tiếp điều khiển chương trình.
Với nụ cười tươi tắn muôn thuở trên môi chị Quyên công bố cách thức cuộc thi. Nghe tới đâu, mồ hôi tôi toát ra tới đó. Thể lệ cuộc thi là một cú bất ngờ đối với tôi, cũng có thể với cả các lớp khác. Theo như các cuộc thi hái hoa dân chủ tổ chức trước đây thì sau khi cử người lên "hái " câu hỏi, lớp dự thi có quyền chỉ định người trả lời. Ví dụ như, nếu Quang lên bắt nhằm câu hỏi văn thì "người hùng" sẽ là tôi. Chọn người đi dự thi lần này, lớp tôi cũng chọn trên cơ sở đó. Ai dè, cách thức cuộc thi do chị Quyên công bố lại khác hẳn: Người nào lên "hái hoa" người đó bắt buộc phải trả lời câu hỏi mình bắt được. Như vậy có nghĩa là nếu nhà sinh vật mà tóm phải câu về văn thì chưa chắc nó đã trả lời xuôi, còn tôi mà bắt trúng câu hỏi toán thì đời tôi có thể... tàn. Dĩ nhiên, trong trường hợp người đứng trên bảng đáp sai thì những người ngồi dưới được quyền bổ sung hoặc trả lời giùm. Nhưng như vậy, lớp đó sẽ bị trừ điểm. Nghĩ đến chuyện bắt nhằm đề toán, tôi giật mình thon thót. Nếu vậy, không biết sự thể sẽ ra sao. Đến nước này thì không thể trốn tránh vào đâu được. Thể lệ đã quy định các học sinh đăng ký tham gia cuộc thi đều phải lần lượt lên bảng.
Tôi nhìn sang bên cạnh. Quang tỏ vẻ lo âu. Và nhỏ Kim Liên, đội trưởng đội tuyển, không giấu được sự hồi hộp. Còn các đồng đội khác của tôi vẫn bình tĩnh như thường. Rõ ràng là chúng, những học sinh toàn diện, không ngán cách thi mới. Tôi cay đắng và buồn bã hiểu ra điều đó. Nói cho đúng ra, tôi không hề phàn nàn hoặc có ý nghĩ phản đối cách thi này. Người kém thông minh nhất cũng có thể thấy được sự tiến bộ của kiểu thi này so với kiểu thi cũ. Nó loại trừ kiểu học đối phó, kiểu học phân công. Nó đòi hỏi người học sinh phải học toàn diện và ôn đầy đủ, không được phép lơ là hoặc coi nhẹ bất cứ môn học nào.
Nhưng thể lệ chỉ công bố ngay trước cuộc thi khiến tôi bị hố to và nhỏ Kim Liên, đứa chọn tôi, cũng bị hẫng. Tôi chỉ còn cách nhắm mắt cầu nguyện cho câu hỏi toán không rơi trúng đầu tôi.
Trong lúc tôi "cầu nguyện" thì cuộc thi bắt đầu.
Lớp 8A1 lên trước. Bên đó cử thằng Vương. Nó vừa bước lên bảng vừa mỉm cười tự tin. Cả hội trường im lặng theo dõi từng cử chỉ của nó. Đứng trước cái cây bí hiểm nhiều cành nhánh kia, nó phân vân một thoáng rồi bứt đại cuộn giấy màu vàng. Chúng tôi căng mắt nhìn những ngón tay của Vương đang lóng ngóng mở cuộn giấy vo tròn.
Đọc thoáng qua câu hỏi, Vương quay sang chị Quyên ra ý hỏi. Chị Quyên nói:
- Em cứ đọc lớn câu hỏi lên. Và sau đó trả lời.
Vương hắng giọng đọc:
- Phát biểu định luật bảo toàn khối lượng các chất, và giải thích định luật theo thuyết nguyên tử - phân tử.
Đám đông bên dưới ồ lên:
- Dễ quá!
Đó là câu hỏi hóa học về định luật của Lô-mô-nô-xốp. Nếu gặp phải câu hỏi như thế này, tôi cũng có thể đáp được.
Tất nhiên Vương trả lời trôi chảy và chính xác, kiếm điểm mười ngon ơ mà lại khỏi giải bài tập. Lớp 8A1 vỗ tay lốp bốp, đầy phấn khởi.
Tới phiên lớp tôi. Kim Liên hỏi nhỏ:
- Bạn nào xung phong lên trước?
Không đứa nào trả lời, chỉ có những ánh mắt nhìn nhau dò hỏi. Riêng tôi, tôi nhìn xuống, tránh ánh mắt của Kim Liên và tụi bạn, bụng nghĩ: mình sẽ lên sau, để coi đứa lên trước làm ăn ra sao đã!
Trong khi tôi tính toán thì thằng Cang đứng dậy:
- Để tôi.
Nói xong, nó bước ra khỏi chỗ. Cang là "vua vẽ bản đồ" lớp tôi. Nó có năng khiếu hội họa, lại đi học thêm, nên vẽ đẹp hết biết. ở trường, nó chuyên môn trang trí báo tường của lớp cũng như của liên đội. Lớp tôi dành nó cho môn địa, để coi thử nó bắt phải môn gì.
Cang chọn mẩu giấy màu đỏ, mở ra và đọc to đề trước sự hồi hộp của chúng tôi. Đó là một bài toán vật lý liên quan đến mặt phẳng nghiêng.
Nghe xong đề, Bảy thở phào:
- Đề này thằng Cang làm dư sức!
Quả thực, Cang đã đem về điểm mười đầu tiên cho lớp tôi trong sự hoan hô ầm ĩ của đồng đội.
Tiếp đó, tụi 8A3 và 8A4, mỗi lớp cũng kiếm một điểm mười cho mình.
Bắt đầu vòng thứ hai, 8A1 lại xơi một con mười nữa.
Tới 8A2 chưa ai nói gì thì thằng Quang tự động phóc lên bảng khiến đứa nào cũng trố mắt ngạc nhiên. Tôi cũng không hiểu tại sao bữa nay nó bạo dạn dữ vậy. Chẳng phải là học sinh toàn diện, cũng chẳng phải là người quen thi thố tài năng, vậy mà nhoáng một cái, chưa ai kịp có ý kiến, nó đã tót lên trên kia và câu hỏi đã nằm trong tay rồi.
Tôi ngồi yên không trả lời. Bảy không hiểu tiếng la của tôi. Tôi hô "chết", không phải chết thằng Quang mà là chết tôi. Bởi vì, nếu vừa rồi tôi xông lên biết đâu tôi đã bắt được câu hỏi ngon lành này. Còn từ giờ trở đi thì chỉ có trời mới biết cái gì đang chờ đợi tôi.
Sau khi phân tích câu một cách chính xác, Quang hớn hở đi xuống. Tôi giật áo nó:
- Sao mày bạo gan dữ vậy?
Quang nhe răng cười hì hì:
- Bạo gan gì đâu?
- Sao mày dám lên trước?
- Thì đằng nào cũng phải lên, thôi thì lên đại cho rồi! Lên sau, tao sợ mấy đứa kia bắt hết câu hỏi về sinh vật. Cũng may là đụng ngữ pháp!
Thằng này hên thiệt! Tôi nhủ thầm và ngẫm nghĩ một hồi, thấy cái kiểu suy luận liều mạng của nó coi ra cũng có lý. Đúng rồi, mình phải nhanh chân lên chớ không tụi nó bắt hết những câu hỏi về môn văn. Nghĩ vậy, nhưng khi đến lượt lớp tôi, tôi vẫn ngồi yên nhường cho Kim Liên lên. Nó bắt phải câu hỏi sử dễ ợt khiến tôi tiếc hùi hụi.
Trong khi tôi chần chờ thì Quang đã lập thêm một thành tích. Thành tích này còn sáng :Di hơn khi nãy.
Số là nhỏ Ngọc Điệp bên lớp 8A4 bắt phải đề sinh vật có hai câu hỏi. Câu thứ nhất hỏi về sự khác nhau giữa cá chép và cá mập thì nó trả lời được, vì đã học qua rồi. Câu thứ hai, tức là câu hỏi phụ mới thiệt là nhức óc:
- Cá heo bơi rất nhanh, trong mười giây chúng bơi được 100 mét. Em hãy giải thích vì sao?
Trong bài "Lớp cá" chúng tôi đã học không có đoạn nào nói đến chuyện này. Rõ ràng đó là câu hỏi thầy Hiển đặt ra để thử trình độ hiểu biết của chúng tôi.
Sau khi trả lời xong xuôi câu hỏi thứ nhất, Ngọc Điệp cứ thừ người suy nghĩ. Nó đứng yên lâu đến nỗi chị Quyên phải nhắc:
- Sao, em trả lời được không?
Ngọc Điệp ấp úng đáp cầu may:
- Cá heo bơi nhanh là nhờ hệ cơ đuôi phát triển.
Nói xong, nó nhìn ban giám khảo. Thầy Hiển mỉm cười, lắc đầu:
- Không phải! Các em lớp 8A4 có bổ xung gì không?
Một thoáng im lặng. Rồi một đứa đứng lên:
- Thưa thầy, cá heo bơi nhanh là nhờ có nhiều vây ạ.
Thầy Hiển lại lắc đầu.
Lớp 8A4 vẫn không chịu thua:
- Thưa thầy, nhờ da có trơn ạ.
Cũng trật luôn. Thầy Hiển gõ viết xuống bàn:
- Mời các lớp khác!
Có tiếng đứa nào cười hí hí phía sau, pha trò:
- Có gì đâu! Tại vì nó vừa là cá lại vừa là heo!
Tôi không nhịn được liền thúc vô hông nhà sinh vật:
- Ra tay đi mày! Hay mày cũng bí?
Không đợi tôi khích đến lần thứ hai, Quang đứng dậy. Nó làm một tràng:
- Thưa thầy, cá heo sở dĩ bơi được nhanh là nhờ hình dạng cơ thể của chúng bảo đảm cho việc đạt tới tốc độ tối đa. Chính các chuyên gia đóng tàu đã nghiên cứu đặc điểm này của chúng để đóng thử nghiệm loại tàu vượt đại dương có hình dạng tương tự và đã đạt được vật tốc cao hơn những con tàu hiện đại có hình dáng con dao.
Quang ngừng một chút lấy hơi rồi tiếp:
- Ngoài ra, chúng bơi nhanh còn nhờ sự cấu tạo lớp da của chúng. Lớp da ngoài rất dày và đàn hồi không thua gì loại cao su tốt nhất, gắn với một lớp khác có nhiều mũi lồi nằm lọt vào những hốc của lớp da ngoài. Nhờ vậy mà cá heo bơi rất nhanh.
Nói xong, Quang ngồi xuống. Tôi nghe nó nói thao thao bất tuyệt, sướng lỗ tai thiệt nhưng không biết có đúng không. Mấy đứa khác cũng ngơ ngơ ngác ngác. Chỉ đến khi thầy Hiển lên tiếng:
- Em Quang đã đáp rất đúng câu hỏi. Thầy chỉ bổ sung thêm một phần nhỏ: Chính nhờ da cá heo đàn hồi nên khi vận tốc tăng lên đột ngột, trên lớp da của chúng xuất hiện những vết nhăn vận tốc và dòng chảy tầng chớ không biến thành dòng xoắn lộn xộn như ở các loại cá khác. Nhờ vậy, cá heo có vận tốc cao. Nhưng dù không dẫn giải điều này, câu trả lời của em Quang vẫn xứng đáng được điểm mười.
Thì cả hội trường, kể cả đám khán giả ở cuối phòng, không hẹn mà cùng vỗ tay như sấm. Tất cả mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Quang, lúc này đang che giấu niềm vui bằng một nụ cười ngượng nghịu. Tôi cũng hào hứng vỗ đến rát cả tay, sung sướng có một người bạn "xịn" như vậy.
Cuộc thi lại tiếp tục.
Tôi nhủ bụng, lần này phải lên bảng. Lên sớm may ra vớ được một đề văn. Vả lại, tôi phải lên, tôi phải làm một cái gì đó cho ra trò, mặc dù không biết đó là cái gì. "Vinh quang" của nhà sinh vật làm dậy trong lòng tôi một thôi thúc mơ hồ mà mãnh liệt.
Nghĩ sao làm vậy, tới vòng thứ tư, khi thằng Lợi bên lớp 8A1 vừa xuống, tôi liền rời khỏi chỗ ngồi, tiến lên bảng không đợi chị Quyên gọi.
Đứng trước những cành nhánh lủng lẳng các mẩu giấy đủ màu, tim tôi đập thình thịch. Tôi đứng lưỡng lự một lúc lâu, chưa biết nên chọn mẩu giấy nào, bên tai nghe loáng thoáng những câu trêu chọc:
- Thằng Huy nó đang thôi miên các câu hỏi!
- Không phải, nó đang ngắm cây cảnh!
- Tụi mày không biết gì hết, nó đang làm thơ tả cái cây đó!
Câu cuối cùng đích thị là giọng thằng Chí. Nãy giờ nó đứng lấp ló ở cuối phòng, không hó hé một tiếng, vậy mà tôi vừa xuất hiện là nó trổ cái tật bép xép ra liền. Tôi tức nó vừa giận mình. Khi nãy ngồi dưới tôi đã hạ quyết tâm đâu đó đàng hoàng, vậy mà khi lên đây tôi bỗng dưng đâm ra ngần ngại. Cuối cùng, tôi chọn cuộn giấy màu xanh. Tôi nhớ lúc nãy thằng Quang cũng bắt phải cuộn giấy xanh.
Tôi vừa lẩm bẩm:
- Lạy trời, đừng toán!
Vừa chậm chạp mở tờ giấy ra, hồi hộp y như người dò vé số vậy. Không dám dò nhoáng một lần, sợ nỗi thất vọng đến quá nhanh, tôi sè sẹ nặn ra từng con số một để niềm hy vọng kéo dài từng giây một.
Toán! Cứ toán!
Tôi tái mặt nhận ra điều tôi vẫn e ngại đang nằm sờ sờ trên mẩu giấy. Té ra trời không có mắt, hoặc ít ra trời cũng nặng tai. Tôi cầu ổng mà ổng không nghe thấy gì hết. Mà lại toán đại số nữa mới chết chớ: tìm số trị của một biểu thức, trong đó nhằng nhịt những a và b, trừ và cộng, nhân và chia, ngoặc lớn, ngoặc nhỏ, bình phương, lập phương đủ thứ, y như thể mọi thứ khó gặm nhất của môn đại số người ta đều đưa hết vào đây.
Tôi nhìn vào đề toán như nhìn vào một khu rừng, không biết đường vô chỗ nào, lối ra ở đâu, mồ hôi rịn ướt trán.
Thấy tôi đọc tờ giấy xong rồi đứng im không nói, chị Quyên giục:
- Câu hỏi gì đó em? Đọc đi!
Tôi khẽ đáp:
- Bài tập toán.
- Vậy thì sau khi đọc xong em chép đề và giải trên bảng.
Tôi đọc và chép như một cái máy. Lúc này thực tình tôi không nghĩ gì đến bài toán nữa mà nghĩ đến số phận hẩm hiu của mình.
Tôi rầu rĩ nhìn xuống dưới và thấy Bảy cũng đang nhìn tôi bằng ánh mắt buồn bã và lo lắng. Nó thừa hiểu tôi không thể nào làm được bài toán này và sự "gãy gánh" của tôi sẽ đem lại bất lợi lớn cho kết quả của lớp trong cuộc thi hôm nay. Dù gì thì gì, Bảy cũng phải chịu một phần trách nhiệm, bởi vì nó là ông thầy toán của tôi, một ông thầy không hoàn thành nhiệm vụ. Tự dưng tôi thấy tội nghiệp Bảy. Mặc dù vừa phải bán hàng vừa trông em, nó vẫn tích cực và kiên trì kèm cặp cho tôi với thằng Quang trong những chiều học nhóm. Tất cả mọi điều là do cái tính biếng nhác, ngại khó của tôi mà ra. Gần đây, tôi có siêng hơn, đã chịu dành đầu óc cho môn Toán, nhưng bước xuất phát của tôi quá chậm, nay ra đến giữa học kỳ hai tôi mới có hy vọng đuổi kịp tụi bạn. Còn bây giờ thì... Tôi đảo mắt nhìn đám đông hỗn độn cuối hậu trường. Thằng Chí đang đưa tay làm loa nhắc tôi cái gì đó. Xa quá, tôi nghe không rõ, và khẽ lắc đầu.
Thấy vậy, thằng Chí tăng âm thanh:
- Phải rút gọn biểu thức!
Câu nhắc của Chí cả phòng đều nghe. Nó "giúp bạn" lộ liễu quá khiến tôi mắc cỡ đỏ cả mặt. Ngay cô Thanh cũng phải lên tiếng nhắc nhở:
- Ở dưới không được nhắc! Lớp nào nhắc sẽ bị trừ điểm!
Nhưng dù Chí có nhắc, tôi cũng không biết làm sao để rút gọn biểu thức. Bây giờ tôi chỉ mong rút gọn được chính tôi, thu nhỏ lại bằng con kiến, kiến lửa cũng được, để khỏi phải trơ bộ mặt đần độn ra trước hàng trăm con mắt.
Rốt cuộc, thì Chị Quyên lên tiếng hỏi tôi:
- Em giải được không?
Tôi sượng sùng:
- Dạ không ạ!
Đáp xong, tôi lẳng lặng về chỗ, bước chân như đeo đá. Trong khi đó, Bảy tiến lên bảng. Nó cầm phấn nguệch nhoáng một cái là xong. Khi về chỗ ngồi, nó vỗ vai tôi, an ủi:
- Đừng buồn! Thua keo này, bày keo khác!
Không phải tôi sợ mình không bày được keo khác, điều đó nhất định là được, nhưng tôi buồn là mình đã để thua keo này một cách đáng trách. Lỗi không phải ở Bảy, người bạn tốt và hiền lành của tôi, cũng không phải ở nhỏ Kim Liên, người đã chọn tôi vào đội hình hôm nay, cũng không phải ở thể lệ sửa đổi của cuộc thi, càng không phải ở môn toán. Bây giờ tôi không "oán " nó mà "oán " chính tôi. Đáng lẽ tôi phải cố gắng sớm hơn!
Tôi chìm trong suy nghĩ buồn rầu và không còn bụng dạ nào chú ý đến những gì xảy ra sau đó nữa.
Lúc ra về, tôi không tuôn ra cổng theo đám bạn mà lẻn ra ngoài vườn bạch đàn ngồi một mình một bóng. Tôi muốn được yên tĩnh trong lúc này. Tôi lót dép dưới quần, ngồi tựa lưng vô tường, lặng lẽ nhìn ngắm lớp đất tơi xốp do chính tay tôi xới trong những ngày qua, trên đó những hàng bạch đàn tươi tốt cứ vươn mãi về phía bầu trời với những chiếc lá non tơ, xanh biếc.
Có một bàn tay đặt lên vai tôi. Giỏi thiệt! Chân cẳng thằng Bảy vậy mà nó cũng lùng sục ra mình! Tôi quay lại.
Không phải Bảy mà "cậu ông trời" đang ngồi bên cạnh tôi. Nó muốn gì đây? Tôi đã biết thân biết phận, bỏ ra ngồi đây, vậy mà nó còn kiếm tôi tính gây chuyện nữa sao? Tôi bực dọc quay mặt đi chỗ khác. Nhưng Đại đã bóp nhẹ vai tôi:
- Tụi mình về đi! Không đứa nào trách mày chuyện khi nãy đâu! Con người ta chớ có phải cái máy đâu mà tiến vọt một cái ngay được!
Không đợi tôi đồng ý hay không, nó dựng tôi dậy và kéo đi. Lần đầu tiên từ ngày nhập học, tôi đi chung với Đại, đi chung một cách tự nguyện, sung sướng và dễ chịu.

Trang 4

0nline
Trở Về
On/Today/Totall:1/1/125